Quản lý ao nuôi và phòng bệnh Cá giai đoạn nắng nóng và giao mùa nắng – mưa

Giai đoạn mùa nắng và giao mùa nắng – mưa ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long kéo dài từ giữa tháng ba đến cuối tháng năm hằng năm.

Giai đoạn mùa nắng và giao mùa nắng – mưa ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long kéo dài từ giữa tháng ba đến cuối tháng năm hằng năm. Thời tiết giai đoạn này có đặc điểm nắng nóng liên tục và có những cơn mưa đầu mùa với vũ lượng thấp, mưa cục bộ vài nơi trong địa phương. Đôi khi một vài cơn mưa với vũ lượng cao bất thường cũng xảy ra. Tuy nhiên, mưa lớn vẫn chỉ ở một vài địa phương, khu vực. Giai đoạn chuyển mùa này chỉ kết thúc và thời tiết bắt đầu chính thức bước vào mùa mưa khi mưa thường xuất hiện với vũ lượng cao và trải đều trên toàn khu vực, thường là giữa tháng sáu.

Sau những đợt nắng nóng gay gắt kéo dài cuối mùa khô và thỉnh thoảng xuất hiện vài cơn mưa nhỏ kèm theo giông, thời tiết lúc giao mùa đột ngột thay đổi, xen kẽ giữa nắng nóng, mưa ẩm và bầu trời nhiều mây khiến cá nuôi mệt mỏi, sức đề kháng suy giảm. Càng nắng nóng, kết hợp mưa nắng thất thường cùng với vệ sinh bên trong và bên ngoài ao, bè nuôi cá không tốt sẽ là điều kiện cho mầm bệnh virus, vi khuẩn và ký sinh trùng sinh sôi và phát triển. Nhiệt độ cao nhất phổ biến 32 – 36 độ C, số giờ nắng kéo dài từ 9-10 giờ mỗi ngày, độ ẩm duy trì dưới 60%, là điều kiện rất bất lợi cho cá trong ao, bè. Nóng khô liên tục khiến nước ao bị nóng, cùng với quá trình bốc hơi nhiều sẽ làm chất lượng nước biến đổi theo chiều hướng xấu rất nhanh, cá dễ bị mắc các bệnh như lồi mắt trướng bụng do Streptococcus sp., xuất huyết do Aeromonas sp., thối mang, mòn vây do Flavobacterium sp., sán lá mang, trùng bánh xe dẫn đến chậm lớn hoặc bị hao hụt nhiều. Những cơn mưa đầu trái mùa và đầu mùa kéo theo chất bẩn tích tụ từ cống rảnh, kênh nhỏ vào ao nuôi mang nhiều vi khuẩn yếm khí, gây thối và nhiều loại khí độc, đồng thời nước mưa vào ao cũng kích thích hệ vi sinh có hại trong ao gia tăng nhanh số lượng sẽ làm cá bệnh và chết nhiều.

A. Các rủi ro thường gặp

1. Rủi ro do nhiệt độ nước cao

Trong những tháng mùa khô, ngày dài và bức xạ nhiệt cao trực tiếp từ mặt trời là lớn nhất, nước trong ao trở nên phân tầng thành các lớp nước có nhiệt độ chênh lệch nhau trong ao; với nhiệt độ cao nhất là 32 – 33 độ C ở lớp nước bề mặt của ao, lớp nước ở giữa ao có thể là 28 – 30 độ C và lớp nước ở tầng sâu nhất nhiệt độ thấp, đặc biệt các ao độ sâu 4-5m, có thể thấp đến 24 – 26 độ C.

Tác động cơ bản của quá trình tách nhiệt của các tầng nước là làm giảm hàm lượng oxy hòa tan tổng thể trong ao; làm cho ao trở thành môi trường sống bất lợi của cá. Hơn nữa, nhiệt độ nước cao thúc đẩy sự phân hủy của các chất hữu cơ có thể dẫn đến sự tích tụ khí độc có hại. Sự kết hợp ảnh hưởng của giảm oxy hòa tan và tích tụ khí độc NH3 và H2S trong nước sẽ làm giảm sự thèm ăn của cá, gây căng thẳng, và cuối cùng dẫn đến cá bệnh, chết.

2. Rủi ro do khô hạn

Trong mùa hạn, nông dân thường gặp khó khăn trong việc làm thế nào để bổ sung nước cho ao của mình. Điều này đặc biệt đúng đối với những người có ao ở khu vực kênh, mương nhỏ xa các nhánh sông lớn. Các ao nuôi cá có diện tích lớn dễ gặp rủi ro hơn vì có ít nước bổ sung vào ao hơn. Nhiệt độ không khí cao sẽ ảnh hưởng đến nhiệt độ và thành phần của nước, do đó làm tăng sự phát triển của tảo có thể làm giảm chất lượng nước. Chất lượng nước kém đồng nghĩa với việc môi trường sống không phù hợp, có thể khiến cá bị căng thẳng, yếu ớt và cuối cùng chết.

3. Rủi ro do chất bẩn, ô nhiễm vào nguồn nước và vào ao

Những cơn mưa đầu mùa sẽ lôi cuốn các chất bẩn, ô nhiễm, vi sinh vật tích tụ lâu ngày do khô hạn như bùn đất, khí độc, vi khuẩn có hại trong cống rãnh, hóa chất, thuốc trừ sâu dùng cho cây trồng vào kênh mương, nguồn nước chung. Tác động này sẽ rõ ràng hơn khi những cơn mưa lớn bất thường trong lúc giao mùa nắng mưa sẽ kéo đồng loạt các chất độc và vi khuẩn độc hại vào nguồn nước chung. Chất bẩn nhiễm vào nước và vi khuẩn sinh sôi nảy nở nhanh khi có nguồn nước mới sẽ làm oxy hòa tan giảm nhanh. Điều này giải thích tại sao cá trong kênh, sông hay bị chết đồng loạt sau những cơn mưa đầu mùa do thiếu oxy và khí độc, chất ô nhiễm tăng đột ngột trong nước.

4. Rủi ro do bệnh cá

Điều kiện khô hạn làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh trên cá. Các bệnh trong mùa nắng nóng bao gồm xuất huyết do Aeromonas sp., ký sinh sán lá và trùng bánh xe trên mang và da cá. Bất kỳ nguyên nhân gây căng thẳng nào cũng sẽ khiến các bệnh này dễ xảy ra hơn. Các bệnh do ký sinh trùng bao gồm ký sinh trùng ở mang có thể trở thành vấn đề lớn do cá sống chật chội trong các ao nhỏ hơn. Các vi khuẩn luôn có sẵn trong nước thuộc giống Aeromonas thường gây bệnh khi oxy trong nước hòa tan giảm, cá căng thẳng do mật độ dày, cá bị tổn thương trên da và mang do ký sinh trùng hay do phân cỡ, chuyển ao hay mới vận chuyển cá giống về thả vào ao, bè.

B. Các biện pháp giúp giảm thiểu rủi ro liên quan đến giai đoạn chuyển mùa

1. Quạt nước, sục khí cho ao:

Oxy hòa tan trong ao được biết là yếu tố quan trọng nhất trong các chỉ tiêu hóa học của nước ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và sự sống của cá. Thông thường ai cũng biết rằng sục khí vào nước là một cách hiệu quả để cải thiện lượng oxy hòa tan và hơn nữa là thúc đẩy sự lưu thông của nước. Các phương pháp đơn giản để tăng hàm lượng oxy bao gồm sử dụng máy sục khí hoặc quạt nước; cả hai đều còn giúp làm giảm tích tụ carbon dioxide trong nước.

Nguy cơ thiếu oxy trong nước ao nuôi tăng lên khi thời tiết khô, nóng. Nước có nhiệt độ cao giữ ít oxy hơn so với nước mát hơn. Tảo phát triển nhiều hơn ở vùng nước nông, ấm. Mặc dù tảo tạo ra oxy vào ban ngày nhưng chúng tiêu thụ oxy vào ban đêm và khi trời nhiều mây. Ánh sáng mặt trời, khi cường độ cao, có thể làm tảo nở hoa sau đó chết đi đồng loạt tạo ra sự suy giảm oxy trong nước. Mật độ của cá sẽ trở nên dày hơn khi mực nước ao giảm và sẽ làm tăng nhu cầu cho oxy cho thể tích nước ao.

Các thiết bị sục khí có thể bảo vệ cá trong ao khi trời nắng dài ngày. Giải pháp đơn giản là mua một máy sục khí điện cung cấp khoảng 0,2 mã lực nhằm sục khí hiệu quả trên 1000 m2 diện tích ao. Vận hành máy sục khí khi cần thiết trong đêm, sáng sớm và lúc nước đứng giúp phần nào tiết kiệm dầu, điện chạy máy nhưng vẫn cải thiện phần nào chất lượng nước và sức khỏe của cá trong ao bè. Các giải pháp sục khí khác có thể bao gồm máy quạt nước. Máy quạt nước có thể cũng được sử dụng để tuần hoàn nước ao. Nước nên được quạt bắn vào không khí ít nhất đạt được độ cao 0,6 m để tăng hàm lượng oxy khuếch tán vào nước.

Dấu hiệu cảnh báo về tình trạng cạn kiệt oxy:

  • Kiểm tra ao, bè là việc đầu tiên nên làm vào buổi sáng lúc 6h. Đây là thời điểm lượng oxy hòa tan thấp nhất.
  • Theo dõi sự thay đổi màu sắc của nước ao. Sự thay đổi từ xanh lục sang nâu hoặc xám có thể cho thấy tảo chết và suy giảm oxy sẽ xảy ra trong 24 đến 48 giờ sau đó.
  • Thời tiết nhiều mây làm giảm lượng ánh sáng cho quá trình sản xuất oxy từ tảo. Hai hoặc ba ngày thời tiết có nhiều mây có thể làm thiếu oxy vào ngày hôm sau.
  • Gió lớn có thể làm cho ao cạn bị trộn lẫn nước trong các tầng nước khác nhau. Điều này đặc biệt nguy hiểm khi tảo nở hoa dày đặc.
  • Theo dõi tình trạng và hoạt động bắt mồi của cá để phát hiện các dấu hiệu của oxy thấp hoặc bệnh cá. Khi cá được cho ăn thức ăn viên nổi, chúng sẽ ngừng bắt mồi khi oxy thấp.
  • Cá sẽ nổi lên mặt nước vào buổi sáng và đớp không khí khi sự suy giảm oxy bắt đầu. Ngay lập tức bật quạt nước hay sục khí.

2. Cấp nước:

Người nuôi nên cân nhắc việc bổ sung nguồn nước trong ao của họ thường xuyên khi cần thiết, và kiểm soát lượng sinh vật phù du để chúng không phát triển quá nhiều. Theo đó, độ trong của nước được chấp nhận là 30 cm trên đĩa secchi. Nếu có quá nhiều sinh vật phù du (độ trong < 20 cm trên đĩa secchi), điều này sẽ dẫn đến mức độ thiếu oxy nghiêm trọng (dưới 1 miligam /lít), gây nguy hiểm cho sự sống của cá.

3. Kiểm soát lượng thức ăn cho ăn:

Lượng thức ăn dư thừa sẽ đưa chất thải và NH3 vào nước. Điều này có thể dẫn đến việc cá bị căng thẳng và có thể chết. Khi không thể thay nước hoặc trong thời gian nhiệt độ nước giảm đột ngột do mưa lớn bất thường, cá có xu hướng giảm ăn; và do vậy, việc điều chỉnh giảm lượng thức ăn cho ăn phù hợp sẽ rất có lợi.

4. Xem xét lập kế hoạch sản lượng:

Sản lượng trong mỗi vụ nuôi hay đợt sản xuất cá giống cần được tính toán nhằm giảm thiểu những rủi ro liên quan đến mùa đang nuôi cá cho dù đó là mùa lũ lụt hoặc hạn hán. Nên cắt giảm ¼ sản lượng trong những khoảng thời gian khô hạn và giao mùa.

5. Cân nhắc việc thả cá giống:

Nên thả cá giống có kích thước lớn để giảm tỷ lệ cá hao hụt sau khi thả nuôi, giảm tổng thời gian nuôi, hoặc thả cá với mật độ thấp hơn. Bằng cách áp dụng như vậy, ao có nhiều khả năng sẽ cho ra cá chất lượng cao hơn, do đó, thu được lợi nhuận tốt hơn.

6. Đối với bè nuôi:

Người nuôi cần bố trí tránh nắng chiếu gay gắt trực tiếp bằng hệ thống lưới màng, bạt dễ thao tác và tháo lắp.

7. Chăm sóc nuôi dưỡng:

Khẩu phần ăn đảm bảo chất lượng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cá là yêu cầu quan trọng. Đồng thời bổ sung thêm GREEN-HEAL, GREEN-ANTISTRESS, GREEN-PROBI để tăng khả năng hấp thụ thức ăn nhằm nâng cao sức đề kháng vật nuôi. Điều này giúp tránh được hiện tượng cá đi phân sống hay xảy ra trong thời kỳ nắng nóng.

8. Công tác vệ sinh tiêu độc khử trùng:

Hằng ngày phải vệ sinh sạch sẽ từ trong ra ngoài bè, xung quanh ao nuôi. Dọn dẹp lục bình vướng quanh bè, vớt bỏ xác cá chết vào nơi quy định, vớt sạch rác, vỏ chai lọ thuốc, vỏ bao thức ăn trong ao và trên kênh mương. Chà bạt bể ếch thường xuyên.

9. Chăm sóc, quản lý:

Hằng ngày theo dõi sức khỏe đàn cá nuôi, phát hiện sớm cá nuôi có biểu hiện bất thường để điều trị kịp thời. Nếu số lượng nhỏ cá bị bệnh nhưng không thấy biểu hiện lây lan thì áp dụng ngay cấp thuốc trợ sức, trợ lực qua thức ăn như GREEN-AQUA-C và điều chỉnh, cải thiện chất lượng nước. Trường hợp thấy cá có triệu chứng bệnh nặng, lây lan nhanh, số lượng chết tăng dần hằng ngày khó kiểm soát, cần báo ngay cho người có chuyên môn và trách nhiệm để được hướng dẫn xử lý kịp thời.

Không nên tác động đến đàn cá như vận chuyển cá, chuyển ao, phân cỡ vào những ngày thời tiết nhiều mây âm u, sau cơn mưa, lúc cá đang bắt mồi yếu. Trước khi tác động vào đàn cá nên tăng cường sức đề kháng bệnh cho cá bằng cách bổ sung GREEN-AQUA-C liều 100 g/tấn cá/ngày liên tục trong 5 – 7 ngày. Thêm vào đó luôn ghi nhớ cắt mồi hoàn toàn 2 – 3 cữ cho ăn trước và sau khi tác động vào đàn cá. Khi bắt đầu cho cá ăn lại nên cho ăn với lượng tăng dần từ 20 – 100 % lượng ăn trong 3 – 4 ngày.

Nếu nghi ngờ nước nhiễm thuốc trừ sâu, không nên cấp nước vào ao. Nếu thể tích nước cần sử dụng không quá lớn, có thể xử lý nước bằng GREEN-GLUTACIDE liều 1 lit/3.000m3 trước khi cấp cho bể hương hay giống, sau khi diệt khuẩn 24 giờ nên bổ sung lại hệ vi sinh có lợi bằng GREEN-BAC.

Theo dõi tin tức dự báo thời tiết hằng ngày. Trước những ngày được dự báo có mưa to nên rải vôi CaCO3 đều khắp bờ ao với lượng 20 – 25 kg tính cho diện tích 1.000 m2 mặt nước ao.

Hút bùn đáy ao được xem là biện pháp quan trọng trong quản lý môi trường ao nuôi. Việc hút bùn đáy ao sẽ duy trì chất lượng nước tốt, cá khỏe ít hao hụt do bệnh nên giúp giảm các chi phí sử dụng thuốc hóa chất trong phòng trị bệnh.

C. Các bệnh thường gặp trong mùa nắng nóng và giao mùa

BỆNH LỒI MẮT, TRƯỚNG BỤNG TRÊN CÁ RÔ PHI, DIÊU HỒNG; ĐỤC MẮT QUẸO CỔ TRÊN ẾCH

Tác nhân gây bệnh:

Bệnh do liên cầu khuẩn Streptococcus sp. gây ra. Bệnh thường xảy ra hơn và gây hao hụt cá, ếch nhiều vào mùa có nhiệt độ nước cao (tháng 3-8), khi hàm lượng oxy hoà tan trong nước thấp, cá nuôi với mật thả cao và trọng lượng cá từ 100g trở lên. Bệnh xảy ra gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi (mỗi đợt bệnh kéo dài tỷ lệ hao hụt lên đến 50-70%). Thông tin sau sẽ giúp người nuôi hiểu rõ hơn về bệnh này từ đó có cách phòng trị.

Bệnh gây chết cá, ếch nhiều nhất trong các tháng nhiệt độ nước cao (tháng 4-7). Cá bệnh nhiều trong giai đoạn trọng lượng 100 – 500 g/con. Số lượng cá chết hằng ngày không tăng nhanh đột biến tuy nhiên số ngày cá chết kéo dài 3-4 tuần nếu không điều trị. Số cá hao mỗi ngày trong một bè có thể lên đến vài chục đến vài trăm con. Cá bệnh bơi xoay vòng, mắt lồi, giác mạc mắt đục, bụng trướng to bên trong xoang bụng chứa đầy dịch xoang bụng trong suốt. Gan nhạt màu, lách sưng rất to, thận sưng to. Ếch bệnh có biểu hiện đục mắt, quẹo cổ do liệt cơ. Cá, ếch có thể bị xuất huyết nhẹ hay không bị xuất huyết. Nếu xuất huyết nặng cá có thể đã bị bội nhiễm thêm vi khuẩn Aeromonas gây bệnh xuất huyết.

Cá diêu hồng bệnh lồi mắt do Streptococcus

Cá diêu hồng bệnh lồi mắt do Streptococcus

 

Ếch đục mắt, quẹo cổ do Streptococcus

Ếch đục mắt, quẹo cổ do Streptococcus

Phòng bệnh

Định kỳ sổ ký sinh trùng sán lá mang bằng GREEN-PRAZI 15 ngày/lần, mỗi lần hai ngày liên tục. Xử lý trùng bánh xe bằng GREEN-GLUTACIDE 10-15 ngày/lần, mỗi lần hai ngày liên tục, sau khi 24 giờ cần bổ sung GREEN-BAC để phục hồi hệ vi sinh có lợi trong ao. Bổ sung vitamin, khoáng và các sản phẩm tăng cường sức đề kháng như GREEN-ANTISTRESS và GREEN-MINERALS. Định kỳ 15 ngày tạt GREEN IOD LIQ 1 lần/ngày liên tục trong 2-3 ngày nếu nuôi trong ao.

Trong điều kiện nước đứng, lưu lượng dòng chảy thấp với các bè đặt ở cuối dòng chảy thì nên mở sục khí cho chạy đến khi lưu lượng dòng chảy bình thường trở lại.

Tránh để những tảng lục bình tấp vào bè gây cản trở dòng chảy. Thay 100% nước bể ếch ngày hai lần kết hợp chà bể.

Kiểm tra sán lá mang thường xuyên.

Cho cá ăn trên khu vực rộng hơn tránh cho cá tranh ăn với số lượng quá lớn trong khu vực nhỏ

Nếu thả cá vào vụ hai (tháng 8-10), mật độ thả nuôi nên thấp hơn 20-30% so với vụ một (tháng 3-5).

Điều trị:

Giảm cho ăn. Cho ăn với mức 30-50 % trọng lượng thân. Nếu nuôi cá rô phi trong ao thấy chất lượng nước kém hay ít có nước mới để thay nước có tạt GREEN-IODLIQ 1 lần/ngày liên tục trong 3-4 ngày, sau 24 giờ của lần xử lý cuối cùng nên bổ sung GREEN-BAC liên tục 3-4 ngày để phục hồi hệ vi sinh có lợi trong ao.

Dùng kháng sinh GREEN-AMOX hay FLOR F20 điều trị liên tục trong 5-10 ngày tùy mức độ cá chết trong ao. Sau khi quan sát thấy cá giảm chết hay ngưng kháng sinh điều trị, cho cá ăn men vi sinh đường ruột GREEN-PROBI và GREEN-ANTISTRESS trong 5-7 ngày.

BỆNH THỐI MANG, MÒN VÂY DO VI KHUẨN DẠNG SỢI

Tác nhân gây bệnh:

Bệnh này vi khuẩn Flavobacterium sp. gây ra. Vi khuẩn phát triển mạnh ở môi trường có pH 6,5 – 7,5, nhiệt độ nước 25 – 28oC.

Bệnh thường xảy ra trong các tháng có nhiệt độ nước thấp, mùa mưa bão, áp thấp nhiệt đới từ tháng 8-11, mùa nước đục dày đặc phù sa. Mặc dù bệnh thối mang mòn vây do Flavobacterium sp. không thường xảy ra trong mùa nắng nóng nhưng sau nhưng cơn mưa lớn bất chợt đầu mùa (vũ lượng có khi lên đến 100 mm) làm chất nước trong ao như pH, nhiệt độ thay đổi đột ngột nên bệnh này thường bộc phát. Vi khuẩn này có trong đất của hầu hết các ao và trở thành mầm bệnh với độc lực cao khi cá bị căng thẳng hoặc mật độ cá quá dày. Độ kiềm trong ao có thể được tăng lên bằng cách bón vôi 20 – 25 kg/1000 m2 giúp làm cho bệnh do vi khuẩn này ít nguy hiểm hơn.

Ngoài ra bệnh thường cũng xảy ra vài ngày sau khi thả nuôi cá giống hay sau những cơn mưa rất lớn. Cá bệnh trong mọi giai đoạn nuôi. Số lượng cá chết hằng ngày tăng nhanh đột biến với cấp số nhân 5-10 lần qua từng ngày.  Cá hương, cá giống mới thả có thể chết gần như toàn bộ trong 1-2 tuần. Cá bệnh bị mòn cụt vây đuôi, nếu bệnh kéo dài có thể tuột vảy và lở loét da. Mang có những mảng trắng hoại tử thối rữa tơ mang. Cá có thể bị xuất huyết nhẹ hay không bị xuất huyết

Cá tra bị bệnh mòn vây cụt đuôi

Cá tra bị bệnh mòn vây cụt đuôi

 

Cá diêu hồng bị bệnh thối mang

Cá diêu hồng bị bệnh thối mang

Phòng bệnh

Định kỳ sổ ký sinh trùng 15 ngày/lần với GREEN-GLUTACIDE và GREEN-PRAZI, bổ sung GREEN-ANTISTRESS, GREEN-MINERALS để tăng cường sức đề kháng.

Tuân thủ tốt quy trình kỹ thuật trong vận chuyển cá giống. Trước khi vận chuyển cá giống 7 ngày nên sổ ký sinh trùng với GREEN-PRAZI và kết hợp tạt GREEN-GLUTACIDE, cho ăn liên tục GREEN-HEAL 4-5 ngày. Pha 50g GREEN-OXYTETRA/m3 vào nước vận chuyển cá giống.

Sau khi chuyển cá giống về ao, bè cho ăn tăng dần theo đúng kỹ thuật và bổ sung GREEN-HEAL liên tục trong 5-7 ngày.

Trong những ngày trời âm u, nhiệt độ giảm do áp thấp nhiệt đới, mưa lớn hay kéo dài chỉ cho cá ăn 10-20% trong lượng thân hay không cho ăn hoàn toàn.

Theo dõi dự báo thời tiết để biết trước các ngày có mưa bão, áp thấp nhiệt đới. Qua đó tăng cường sức đề kháng trước cho cá bằng GREEN-AQUA-C và các sản phẩm tăng cường sức đề kháng như GREEN-ANTISTRESS.

Cho chạy sục khí vào thời điểm nước đứng, lưu lượng dòng chảy thấp hoặc những bè đặt ở cuối dòng chảy.

Không tác động đến đàn cá như thu hoạch, chuyển thả cá giống, phân cỡ cá vào những ngày thời tiết âm u, chuyển lạnh do áp thấp nhiệt đới, bão hay không khí lạnh từ miền Bắc tràn về.

Trị bệnh

Khi cá trong một ao chết ở mức vài trăm con trở lên mỗi ngày gần như sẽ thất bại khi điều trị.

Quan sát số lượng cá chết mỗi ngày. Khi ghi nhận số cá chết tăng gấp >= 10 lần so với ngày hôm trước và cá bị cụt, mòn vây phải tiến hành điều trị ngay.

Dùng kháng sinh FLOR F20 điều trị liên tục trong 7-10 ngày, tạt GREEN-GLUTACIDE liên tục 3-5 ngày tùy mức độ cá chết trong ao, sau 24 giờ xử lý diệt khuẩn lần cuối nên bổ sung GREEN-BAC để phục hồi hệ vi sinh có lợi trong ao liên tục trong 3-4 ngày. Sau khi ngưng kháng sinh, cho cá ăn men vi sinh đường ruột GREEN-PROBI và tăng cường dinh dưỡng cho cá bằng GREEN-LIVER, GREEN-ANTISTRESS trong 5-10 ngày.

BỆNH XUẤT HUYẾT

Tác nhân gây bệnh:

Bệnh do vi khuẩn Aemomas sp. gây ra. Cá có dấu hiệu toàn thân bị xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to bên trong có dịch đỏ hồng, đầu và mắt cá sưng, lồi và xuất huyết.  Gan, thận, lách sưng to, nhũn gan và có màu đỏ sậm. Ruột đỏ do sung huyết.

Sau khi thả cá giống 1-2 ngày, cá chết nhiều và chết kéo dài 5-7 ngày. Tỷ lệ cá hao do bệnh này sau khi thả có thể lên đến 10-20%. Những tháng có nhiệt độ nước tăng dần sau Tết và nắng nóng (tháng 3-4), đối với những ao đã thả từ các tháng cuối năm trước, cá cũng có thể bị bệnh xuất huyết.

Cá tra bệnh xuất huyết

Cá tra bệnh xuất huyết

 

Cá diêu hồng bị bệnh xuất huyết

Cá diêu hồng bị bệnh xuất huyết

Phòng bệnh

Định kỳ sổ ký sinh trùng 15 ngày/lần bằng GREEN-GLUTACIE và GREEN-PRAZI, bổ sung GREEN-AQUA-C, khoáng GREEN-MINERALS giúp tăng cường sức đề kháng. Nếu thấy chất lượng nước kém hay ít có nước mới để thay nước trong ao có thể tạt GREEN-IODLIQ 1 lần/ngày liên tục trong 2-3 ngày, sau 24 giờ xử lý diệt khuẩn lần cuối nên bổ sung GREEN-BAC 3-4 ngày liên tục để phục hồi hệ vi sinh có lợi trong ao.

Trong điều kiện nước đứng, lưu lượng dòng chảy thấp với các bè đặt ở cuối dòng chảy thì nên mở sục khí cho chạy đến khi lưu lượng dòng chảy bình thường trở lại.

Tránh để những tảng lục bình tấp vào bè gây cản trở dòng chảy.

Kiểm tra sán lá mang và trùng bánh xe thường xuyên 10-12 ngày một lần.

Cho cá ăn trên khu vực rộng hơn tránh cho cá tranh ăn với số lượng quá lớn trong khu vực nhỏ.

Kiểm tra đáy ao thường xuyên nhằm kịp thời hút bùn đáy ao

Điều trị:

Giảm cho ăn. Tăng quạt nước, sục khí đặc biệt cho cá giống.

Dùng GREEN-DOC hoặc phối hợp GREEN-DOC với FLOR F20 điều trị liên tục trong 5-7 ngày tùy mức độ cá chết trong ao. Tạt GREEN-IODLIQ 1 lần/ngày liên tục trong 3-5 ngày, sau 24 giờ xử lý diệt khuẩn lần cuối nên bổ sung GREEN-BAC để phục hồi hệ vi sinh có lợi trong ao. Sau khi ngưng kháng sinh cho cá ăn men vi sinh đường ruột GREEN-PROBI và GREEN-AQUA-C trong 5-10 ngày.

BỆNH DO SÁN LÁ  MANG

Tác nhân gây bệnh:

Sán lá gây bệnh chủ yếu cho cá và ký sinh chủ yếu trên mang và da cá. Đối với cá rô phi nuôi ao thì sán lá cũng gây bệnh ảnh hưởng lớn đến cá.

Khi nhiễm sán cá ăn yếu, nổi đầu nhiều trên mặt nước vào buổi sáng, gom cục và rộ nhiều khi có tiếng động, tấp mé lưới nhiều, tiết nhiều nhớt, da cá sậm màu.

Mang cá nhợt nhạt, tơ mang tưa, sung huyết, đóng bùn, da cá có các vết thương, đốm đỏ.

Bệnh phát triển nhiều ở cá hương, cá giống khi điều kiện thời tiết thay đổi đột ngột, sức đề kháng cá yếu, ao cá dày đặc chất hữu cơ, ít có khả năng thay nước. Cá nuôi nhiễm nặng sán lá mang sẽ cũng sẽ nhiễm và hao hụt nhiều các bệnh khác như lồi mắt trướng bụng do Streptococcus hay gan thận mủ do Edwardsiella ictaluri.

Phòng bệnh

Định kỳ xổ sán định kỳ 12-15 ngày/lần bằng GREEN-PRAZI mỗi lần 2 ngày liên tục, sau 02 ngày trộn thuốc sổ nên tạt GREEN-GLUTACIDE để diệt ngoại ký sinh, bổ sung GREEN-AQUA-C tăng cường sức đề kháng.

Trong điều kiện nước đứng, lưu lượng dòng chảy thấp với các bè đặt ở cuối dòng chảy thì nên mở sục khí cho chạy đến khi lưu lượng dòng chảy bình thường trở lại.

Tránh để những tảng lục bình tấp vào bè gây cản trở dòng chảy.

Kiểm tra sán lá mang và các ngoại ký sinh nguyên sinh động vật bằng kính hiển vi thường xuyên (mỗi 10 – 15 ngày một lần) để xử lý kịp thời.

Điều trị:

Dùng thuốc điều trị GREEN-PRAZI cho cá 2-3 ngày liên tục, sau khi trộn thuốc sổ nên xử lý GREEN-GLUTACIDE để hỗ trợ xử lý ngoại ký sinh. Sau đó 10-12 ngày nên xổ lặp lại một lần nữa. Sau khi điều trị nên ngừa bội nhiễm Areromonas gây bệnh xuất huyết bằng GREEN-OXYTETRA trong 3-4 ngày liên tục và tăng cường sức khỏe cho cá với GREEN-ANTISTRESS trong 4-5 ngày liên tục.

BỆNH DO TRÙNG BÁNH XE

Bệnh do trùng bánh xe thường xảy ra trên cá hương, giống, thậm chí cá nuôi thương phẩm nuôi mật độ dày. Bệnh này đặc biệt nghiêm trọng cho khu vực nuôi lấy nước từ các hồ chứa, lấy nước từ kênh, mương nhỏ. Cá bệnh gầy, thẩm màu, hay tụ nơi nước cấp vào ao. Các có thể chết rải rác trong 5-7 ngày và chuyển chết ồ ạt sau đó nếu không điều trị.

Phòng bệnh:

Thay nước thường xuyên tránh để nước tích tụ nhiều chất hữu cơ. Định kỳ 12-15 ngày tạt GREEN-GLUTACIDE, ngày một lần trong hai ngày liên tục.

Trị bệnh:

Dùng thuốc điều trị GREEN-GLUTACIDE cho cá ngày một lần, liên tục mỗi ngày (3-5 ngày) cho đến khi số cá hao mỗi ngày không còn đáng kể. Sau đó 10-12 ngày nên tạt lặp lại GREEN-GLUTACIDE ngày 1 lần trong 2 ngày liên tục, sau khi xử lý GREEN-GLUTACIDE 24 giờ nên bổ sung GREEN-BAC để phục hồi hệ vi sinh có lợi trong ao. Sau khi điều trị nên ngừa bội nhiễm Areromonas gây bệnh xuất huyết bằng GREEN-OXYTETRA trong 3-4 ngày liên tục và tăng cường sức khỏe cho cá với GREEN-ANTI STRESS và bổ sung vi sinh có lợi với GREEN-PROBI trong 5-7 ngày liên tục.

Mang cá lóc bông nhiễm trùng bánh xe rất nặng

Mang cá lóc bông nhiễm trùng bánh xe rất nặng

 

Mang tiết nhiều nhớt do trùng bánh xe

Mang tiết nhiều nhớt do trùng bánh xe

 

CÁ TRƯƠNG BỤNG DO THỨC ĂN HOẶC ĐI PHÂN SỐNG

Bệnh thường xảy ra ở các bè cho cá ăn thức ăn tự chế không được nấu chín, không đảm bảo chất lượng hoặc thúc cho cá ăn quá nhiều, cá có sức khỏe yếu, chức năng gan cá yếu làm cá không tiêu hoá được thức ăn, bụng cá trương to, ruột chứa nhiều hơi. Cá bơi lờ đờ và chết rải rác. Cá đi phân có đoạn dài có màu trắng ngà, chứa nhiều hơi và nổi lên mặt nước.

Biện pháp khắc phục:

Điều chỉnh lại cho thích hợp theo hướng giảm 10-20% lượng thức ăn cho ăn hằng ngày của những ngày trước khi cá phát bệnh. Trong thức ăn nên bổ sung GREEN-PROBI chứa vi sinh vật có lợi và các enzyme hỗ trợ tiêu hóa cho cá hàng ngày cho đến khi hết phân sống. Ngoài ra cần trộn các sản phẩm phục hồi sức khỏe gan ruột như GREEN-LIVER, GREEN-ANTISTRESS trong 5-7 ngày liên tục.

DỊCH BỆNH DO TILAPIA LAKE VIRUS TRÊN CÁ RÔ PHI, DIÊU HỒNG

Nguyên nhân gây bệnh:

Tilapia Lake Virus (TiLV) gây bệnh ở các loài cá rô phi bao gồm cá rô phi nuôi và ngoài tự nhiên.

Tỷ lệ chết trong các ổ dịch tự nhiên 9 – 90%; bệnh xuất hiện ở mọi giai đoạn nhưng chủ yếu tập trung ở cá giống. Với giống cá rô phi đỏ nuôi bè bị nhiễm bệnh, tỷ lệ chết có thể lên tới 90% trong vòng một tháng sau thả nuôi. Vì vậy bệnh này còn được gọi là hội chứng cá chết trong vòng một tháng sau thả nuôi. Bệnh lây lan theo chiều ngang, từ cá bệnh sang cá khỏe trong cùng ao nuôi, trại, bè nuôi, qua nguồn nước, dụng cụ nuôi.

Biểu hiện bệnh:

Cá mắc bệnh có biểu hiện không đặc trưng như bỏ ăn, màu sắc cơ thể biến đổi (sẫm màu); thay đổi tập tính bơi lội (như tập trung ở trên bề mặt, bơi lờ đờ), ngừng kéo đàn, hôn mê trước khi chết. Một số dấu hiệu trên cơ thể gồm: hiện tượng xung huyết, xuất huyết não; ăn mòn và lở loét từ dạng điểm đến mảng trên da; mang tái nhợt; mắt bị teo lại hoặc lồi ra, có hiện tượng đục thủy tinh thể; xoang bụng và hậu môn phình to; vẩy dựng lên, có thể bong tróc; đuôi bị ăn mòn.

Bệnh gây tỷ lệ chết cao trong đàn cá nuôi, đặc biệt ở cá nhỏ, do đó khi thấy có hiện tượng cá rô phi nuôi chết rất nhiều trong thời gian ngắn vài ngày đến một tuần không rõ nguyên nhân thì có thể nghi đây là bệnh do virus TiLV gây ra.

Chẩn đoán bệnh tại ao, bè nuôi chủ yếu dựa trên các đặc điểm dịch tễ và dấu hiệu bệnh như mô tả ở trên, đặc biệt chú ý khi có hiện tượng cá rô phi chết nhiều bất thường. Cá giống có thể hao hụt từ 50-90% trong vòng tháng đầu tiên sau thả nuôi. Cá chết nhanh, nhiều trong vài ngày đến một tuần.

Phòng bệnh:

Hiện nay chưa có biện pháp kiểm soát hiệu quả dịch bệnh này. Việc tăng cường sức đề kháng cho cá giống trong 5-7 ngày trước khi vận chuyển về bè nuôi bằng GREEN-HEAL là cần thiết. Ngoài ra trong giai đoạn ương giống, viêc kiểm soát tình trạng cá nhiễm ngoại ký sinh như sán lá mang và trùng bánh xe bằng GREEN-GLUTACIDE và GREEN-PRAZI nhằm nâng cao sức khỏe của cá giống cũng rất quan trọng. Định kỳ 10 ngày/lần tạt GREEN-IODLID diệt khuẩn nước ao, sau khi xử lý diệt khuẩn nên bổ sung GREEN-BAC liên tục 3-4 ngày để phục hồi hệ vi sinh có lợi trong ao. Thêm vào đó, vận chuyển cá giống về trại cần tuân thủ đúng kỹ thuật giúp cá giống giảm sây sát hạn chế tình trạng cá bị nhiễm đồng thời Tilapia lake virus và vi khuẩn gây bệnh xuất huyết Aeromonas sp., từ đó giảm thấp tỷ lệ cá giống hao hụt trong tháng đầu tiên sau khi thả nuôi. Sau  khi thả cá giống nên cho ăm GREEN-AQUA-C, GREEN-ANTISTRESS và GREEN-PROBI liên tục trong 5-7 ngày.

Cá rô phi bệnh do Tilapia Lake Virus

Cá rô phi bệnh do Tilapia Lake Virus

VỀ TẬP ĐOÀN GREENFEED
Liên hệ (Hotline: 0949 555 373)

GREENFEED VIETNAM

Close
Hủy

* Chúng tôi cam kết không chia sẻ thông tin của bạn với bất cứ bên thứ ba.